Phân bố Cynomorium songaricum

Cynomorium songaricum đôi khi được coi là một phân loài của Cynomorium coccineum với danh pháp Cynomorium coccineum var. songaricum[3], sinh sống dọc theo hồ, đầm lầy than bùn, ven suối và sông trong sa mạc tại Trung Á như ở các tỉnh Cam Túc, Nội Mông, Ninh Hạ, Thanh Hải, Thiểm Tây, Tân Cương của Trung Quốc, Afghanistan, Tây Nam Á (Iran) và Mông Cổ, nơi nó mọc ở độ cao khoảng 500–700 m[2].

Wikipedia tiếng Việt không bảo đảm và không chịu trách nhiệm về tính pháp lý và độ chính xác của các thông tin có liên quan đến y học và sức khỏe. Đề nghị liên hệ và nhận tư vấn từ các bác sĩ hay các chuyên gia. Khuyến cáo cẩn thận khi sử dụng các thông tin này. Xem chi tiết lại Wikipedia:Phủ nhận y khoaWikipedia:Phủ nhận về nội dung.

Nó được gọi là "tỏa dương" (锁阳, suo yang) ở Trung Quốc, nơi người ta tích cực thu hái nó để sử dụng trong y học dân gian để điều trị một số bệnh như hội chứng Koromộng tinh[2][4].

Một thành phố ở Trung Quốc, gần An Tây (nay thuộc tỉnh Cam Túc), trước kia có tên gọi là Tỏa Dương sau khi một viên tướng trong thế kỷ 7 là Tiết Nhân Quý cùng đội quân của ông đã đứng vững trong một cuộc vây hãm là nhờ ăn loại thực vật này[5]. Sau này nó được "du nhập" (hay nhập khẩu?) từ Mông Cổ vào Trung Quốc trong thời nhà Nguyên như một loại cây thuốc, và được Chu Đan Khê (朱丹溪, Zhū Dānxī) đề cập lần đầu trong Bản thảo diễn nghĩa bổ di (本草衍義補遺, Běncǎo Yǎnyì Bǔyí - bổ sung và mở rộng Thần Nông bản thảo kinh) năm 1347. Nó là một thành phần trong đơn thuốc của ông gọi là hổ tiềm hoàn (虎潛丸, hǔqián wán) sử dụng để điều trị liệt dương và/hoặc chân yếu[5].

Đối với các định nghĩa khác, xem Tỏa dương.

Liên quan